HÀN MẶC TỬ THI SĨ ĐỒNG TRINH (chương 11, 12)


Tiểu thuyết chân dung của NGUYỄN THỤY KHA

11. Đau thương

Như câu thơ xuyên qua thế kỷ
Những câu thơ nới rộng trời xanh

Nguyễn Thụy Kha

Chợt một ngày tình cờ trong nỗi cô đơn, Trí nhận được một tấm ảnh cở 6×9 cm. Kim Cúc mặc áo dài lụa trắng đứng vòm cây. Bức ảnh gây xao động như cơn triều lên trong Trí. Trí không sao biết được ngoài tấm ảnh, Kim Cúc còn dành dụm một số tiền nhỏ, toan nhờ Ngân gửi tặng chàng thuốc thang nhưng gia phong nghiêm cẩn. Không thực hiện được. Trí càng không biết nàng đã quy y, dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm khi chàng rời khỏi cõi đời, để tưởng nhớ mối tình chàng đã trao cho nàng. Mối tình đầu trong trắng. Chàng chỉ biết phải viết ngay ra cảm xúc trước bức ảnh.

Sao Anh không về chơi thôn vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn tênh hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây suong khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Viết xong bài thơ, Trí đi đi lại lại trên bãi cát. Chàng chỉ muốn chạy ngay về con đường Khải Định, để rồi lại bồi hồi như ngày nào trộm ngắm nhìn nàng, để rồi lại được ngân nga những câu thơ về xứ sở này, chàng vẫn có quyền quỳ xuống, úp mặt xuống con đường để hôn từng dấu chân mà nàng đã để lại ở đầu đời thanh niên mộng mị của Trí.

Chưa bao giờ Trí buồn và viết nhiều như mấy năm nay. Trí viết giữa những bi quan, những cơn đau dữ dội. Tâm trạng thơ biến đổi theo. Chàng như ở trong trạng thái nửa thực nửa mơ. Lại như xuất thần. Có lẽ vì thế mà quên đi những cơn đau. Có lúc Trí ngồi nhiều giờ im lặng trên ghế không cử động. Nhưng nếu có ai gọi thì lại tỉnh táo như thường. Ai nhìn bên ngoài, khó thấy những cơn đau xô đẩy bên trong trí có lúc hoảng hốt lạ lùng, có lúc như bị ám ảnh nào đó phá phách khủng khiếp. Trong nhiều cuộc di chuyển đó đây, bên bờ biển hiu quạnh, trong thôn xóm chơ vơ, Trí có cảm giác nhiều hình ma quái bám riết theo chàng những đêm dài vô tận. Và cô đơn, cô đơn tột cùng. Tuy nhiên trong mê loạn, Trí vẫn tìm được lối thoát ra ngoài thực tại để quên đi tật nguyền đang dày vò, để tìm cái tiên phong đạo cốt của một trích tiên bị đày đọa.

Và những khi từ mộng trở về thực, Trí lại cảm thấy thong dong nhàn hạ như vẹn nguyên một thi sĩ lãng mạn bật nhất với những vần thơ nhẹ nhàng, tình tứ, ý thơ dồi dào tế nhị. Cứ thế những tâm trạng mộng và thức xen kẽ nhau trào ra ở cùng một túp tranh xơ xác, dưới cây phượng vĩ  tàn tạ, bên bờ biển hoang vắng xa xôi. Trí thấy lạ lùng cho mình. Dù trong người đau chàng vẫn mơ ước thoát khỏi trần tục. Trí luôn bị cám dỗ bởi một giấc mơ huyền diệu hương về trời, vượt ra khỏi không gian. Và càng ngày ước mơ càng mãnh liệt. Cứ thế một bên, Trí trôi qua “thời gian”, đăm chìm trong “những giọt lệ” phiêu diêu trong “Trường tương tư” để “Ngủ với trăng” và ngẩn ngơ hỏi “Hồn là ai” rồi dạt trôi trong “Biển hồn ta”, rồi “Cô liêu” “Trút linh hồn”, thấy “Hồn lìa khỏi xác”, “Siêu thoát” tới cõi “Sáng láng” ở “Ngoài vũ trụ”. Một bên lại chầm chậm yêu thương từ “Đà Lạt trăng mờ” xa xưa tới “mùa xuân chín” với niềm “Cao hứng” của đêm “Huyền ảo” với “Đôi ta” từ “Đây thôn vĩ dạ”. Rồi “những giọt lệ” thầm rơi, rồi “Ghen”, rồi ca lên “Đàn ngọc” lúc “Cuối thu”. Lại “Lưu luyến” “Nhập hồn em” cùng “Muôn năm sầu thẳm” của “Trường tương tư” khi “Sầu vạn cổ” lúc “Khói hương tan”.

Trí muốn giao hưởng cả hai phía đó trong một tâm trạng có thể nói là điên, là đau thương. Chế Lan Viên đã cho ra “Điêu tàn”. Trường thơ loạn cần có một tập thơ điên – tập thơ của tận cùng đau thương. Và đây, lời nói về nó đây!

“Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo.

Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng, xung quanh người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm giây quyến luyến –  làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai… Gió phương mô đẩy đưa người đến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc. Người dừng lại để hái những lá tinh hoa. Người nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vở lở. À, ra người cũng dại dột hốt vàng rơi bọc trong vạt áo.

Trí người đã dâng cao và thơ người dâng cao hơn nữa. Thì ra người đang say sưa đi trong mơ ước, trong huyền diệu, trong sáng láng và vượt khỏi ra ngoài hư linh.

Tôi làm thơ?

–          Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng.

Anh sẽ thấy hơi đàn lã lướt theo hơi thở của hồn tôi và chiều theo những sóng điện nóng ran trút xuống bởi năm đầu ngón tay uyển chuyển.

Anh sẽ run theo khúc ngân nga của tơ đồng sẽ để mặc cho giai âm rền rĩ nuối không ngưng.

Và anh sẽ cảm giác lạ, nhìn không chơp mắt khi một tia sáng xôn xao tại có vì sao vỡ. Những thứ ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rên vang dưới ngòi bút.

Tôi làm thơ?

–          Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.

Và cũng nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên.

Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn được tiếng lòng tôi.

Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triễn hết cả cảm giác của tình yêu, tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.

Thôi mời cô cứ vào.

Ánh sáng lạ lùng trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc. Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vì vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa là càng ớn lạnh…

Một hình hài của tập thơ hiện ra. Đi qua nhịp cầu “Gái quê” bắt từ cổ điển sang hiện đại, nhất định “Thơ điên” sẽ chói gắt một đau thương ứ trong dòng máu Trí. Nhưng làm thế nào để có thể in được. Và liệu rằng …. Trí không muốn nghĩ tới nữa. Chàng ném bút xuống chõng tre và bước vội ra cửa.

.

12. Tinh huyết

Có thể nào quên được
Câu thơ buồn vương cây ngô đồng

Nguyễn Thụy Kha

Bích Khê lội bộ từ núi Ấn về tới nhà thì nhận được thư Trí và bài tựa tập “Tinh Huyết”. Nàng mừng quá, xé ngay thư xem. Và cứ thế, nước mắt ứa ra làm nhòe những con chữ thân thuộc của Trí.

Lần rồi ghé Quy Nhơn thăm Trí, Bích Khê thấy Trí sa sút quá. Mình đau khổ có kém gì Trí, nhưng hình như ở bên nhau, an ủi nhau cũng làm vơi được chút ít sự xót xa trong nhau. Ba bài thơ “Thi tứ”, “Ảnh ấy” và “Thời gian” của Bích Khê được khen là tài và tình hòa hợp một cách song toàn, rung cảm người đọc đến da diết, tê mê. Bữa ấy, thương Trí, dù biết Trí đã từng yêu Mộng Cầm – là bậc cháu, Bích Khê vẫn tặng Trí tấm ảnh chàng chụp chung với chị Ngọc Sương. Ý ngầm của Bích Khê là muốn hình ảnh chị Ngọc Sương sẽ gây mộng cho Trí nguôi ngoai bớt u sầu. Quả nhiên, Trí đã làm thơ gửi cho Bích Khê

Ta đè chữ Ngọc trên tàu chuối

Sương ở cung thiềm nhỏ chẳng thôi

Tình ta khuấy mãi không thành khối

Nư giận đòi phen cắn phải môi.

Bích Khê xem xong vui mừng nhưng giấu chị. Chàng đã thành công trong một kế “bá đạo” thuộc tình cảm. Chắc chắn Trí lại hồi hộp, lại mong chờ, lại mộng mị. Và vì thế mà cơ thể, quên bớt tật nguyền.

Khoái chí vì được Trí khen thơ, Bích Khê đã tập hợp thành một tập gửi cho Trí thì Trí gửi trả lại và chê quá kém, nhiều lời phê bình rất nặng nề. Bích Khuê giận run người, xé nát tập thơ và viết cho Trí một câu thề: “Trong sáu tháng tới sẽ trở thành một thi sĩ phi thường. Bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa”. Cú huých của Trí thật công hiệu. Chỉ ba tháng sau, Trí nhận được tập thơ “viết bằng máu huyết tinh túy và châu lệ và tất cả say sưa đắm đuối của một hồn thi sĩ”. Đấy! trong thư Trí viết cho Bích Khê là Trí đã mừng ứa nước mắt, nằm ôm tập thơ suốt một buổi chiều sau khi đọc xong. Trí gọi tập “Tinh huyết” của Bích Khê là “một bông lạ nở hương, một thứ hương quý trọng thơm đủ mọi mùi phước lộc! Một đóa hoa thần dị”. Lòng  Bích Khê như tê dại đi trước những con chữ của Trí: “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu…” Trời ơi! Bích Khê chỉ muốn băng ngay khoảng cách xa giữa đất Thu Xà cô quạnh này tới túp lều tranh bên bờ biển của Trí để cùng được sẻ chia những gì Trí dành cho Bích Khê. Những con chữ của Trí như có thần linh đang xô chạy vào mắt Bích Khê.

“…Ơ. Lọ người cũng như ỏ tranh lõa thể, sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ, của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ.”

Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữ

Ô tiên nương, nàng lại ngự nơi này

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây

Đến triễn lãm cả tấm thân kiều diễm?

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm

Nàng là hương, hay nhan sắc lên hương

Mắt người chân rung ánh sáng nghê thường

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc

Đêm huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút nắng say đọng ở làng môi

Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến nỗi thấy nhau sắc lên hương, thấy cả sóng nghê thường đương nao nao gợn và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa ngọc. Và thấy mái tóc u huyền xinh như một mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo đấy là đêm đang ngủ mơ.

Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồ sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có cái ma lực huyền diệu cám dỗ được ngũ quan người trần…

Sự say mê tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân vào bơ bến của huyền diệu. Ở đây, sự mường tượng của thi nhân lại dồi dào hơn nữa người ta chỉ gặp toàn âm thanh đương ngã ngớn, với muôn thứ xạ hương bay lẳng lơ trong lồng nhạc, trong khi có hằng hà sa số là ánh hào quang va vào hồn hoa, chạm nhằm không khí lạ. Không có sự say đắm nào ở phương xa, hay sự mong nhớ nào cách biệt mà không đến đây để xum vầy, gây nên cảnh tượng đoàn viên của một mùa thơ, mùa trăng bát ngát.

Ở địa hạt huyền diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và mầu sắc. Trong khi nói đến nhạc, thi nhân nghĩ ngay đến những cung cầm chơi vơi, âm điệu rung động cả không gian. Vì bởi mê man với sự “nhẹ nhàng, nhip nhàng thơ đều trong sương”, thi nhân đã sáng tạo được rất nhiều bản ca thần tình, diễn ảo. Và nhạc bây giờ không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẩy hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng cười, mơn man như ân tình dò hỏi:

…Tôi qua tim nàng vay du dương

Tôi mang lên lầu lên cung thương

Tôi không bao giờ thôi yêu nàng

Tình tang tôi nghe như tình lang

Buồn lưu cây đào xin hội xuân

Buồn sang cây tùng thăm đông quân

Ô hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi ! Vàng rơi ! Thu mênh mông !

Đây là cả một trời yêu thương da diết, một trời tương tư, một trời âm hưởng, buồn não, buồn nề :

Vàng rơi ! Vàng rơi ! Thu mênh mông !

Thi nhân kéo ta đu lướt thướt trong cõi u hoài, đằm thắm từ nhũng bản đàn xôn xao hồi hộp như Tỳ Bà, Mộng Cầm Ca, Hoàng Hoa, sang qua một thế giới hào quang, gây cho ta nghe một điệu nhạc hiền hậu và ngọt ngào vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng :

Ơ nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc

Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm

Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương

Màu trăng không gian như gợn sóng

Từ ở phương mô nhạn mang thơ về

Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu

Dâng giây trinh bạch khóc mướt trong mơ

Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ

Ô cõi lầu mây ánh gì kim cương

Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường

Thơ bay, thơ bay vô bàn tay ngà

Thơ ngà ngà say thơ ngà ngà say

Nàng ơi đừng động có nhạc trong giây

Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây

Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động

Ô nàng tiên nương hớp nhạc đầy hương

Đây là một lối sáng tạo, bỏ vần ở chữ thứ tư (vần giữa) ta đọc đến những câu:

…Nhẹ nhàng nhịp thơ đều trong sương

…Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ

…Thơ ngà ngà say thơ ngà ngà say

…Ô nàng tiên nương – hớp nhạc đầy hương

Phải chăng ta nhận thấy sóng âm thanh sao gợn, nổi trội lên xuống như muôn hoa lá bị cơn gió lùa. Lời thề rất thanh, ngào ngạt những tình ý say sưa, mát mẻ, phổi ta , tim ta, hồn ta nở nang ra, háo hức một hương duyên kỳ ngộ.

Tác giả khéo dừng hơi và hạ vần ở chữ thứ tư làm cho câu thơ nữa như riêng tây, nữa như thuận hòa…

Chưa hết đâu, thi sĩ Bích Khê vốn là tay sành âm nhạc , đã quen tai những bản nhạc tây như Valse, Menuets, Sérénade, Marehe… đã từng lĩnh hội và thiệp liệp đến thể cách của văn thơ Thái Tây, nên am hiểu một cách thông minh những lối sáng kiến tù điệu. Và đây là một đoạn thu phảng phất như âm điệu bài “Resversibilite” và “Harmonie du soir” của Baudelaire hay bài “Feerie” của Valery.

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng

Của gương hồ im lặng tợ bài thơ

Chân nhịp nhàng lắng nghe hương nằng nặng

Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng

Của hồn thu đi lạc ở trong mơ

Âm thanh là một nửa tinh thần, anh hoa của thế giới huyền diệu. Còn một nửa khác phải là mầu sắc phương phi của khí thiêng hun đúc, rạng rỡ cả một trời lưu ly, mã não, trân châu. Hình như đã lâu lắm, chàng thi nhân có cái ý niệm bao quát, tân kỳ, đem mình ví với một thiên tượng luôn ấp ủ những khói mây huyền ảo.

Màu sắc như ta đã thấy trong các thi phẩm đông tây đều gồm có hai tính cách:

–          Màu sắc cụ tượng

–          Màu sắc trừu tượng

Màu sắc cụ tượng thì lộ nguyên hình bằng bản chất của nó, như gấm, như hoa, mà ta rờ được, nắm được với đôi tay, còn màu sắc trừu tượng là thứ gì nữa thực, nữa hư, nghe, thấy, biết mà không làm chủ được nó. Ví dụ: Ánh sáng, hương thơm, nhạc vui, không gian, thanh khí…

Màu sắc cụ tượng rất dễ tìm, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mắt của thi nhân, của một kẻ siêu phàm, thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng, phép tắc ấy, và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó. Với màu sắc trừu tượng, thi nhân có cái công phu làm cho trở nên cụ tượng? Nghĩa là có thể nắm được một nậm hào quang, lùa không gian vào vạt áo, dồn kinh cầu nguyện về phương Nam cho hai tiếng sáo đuổi nhau là là.

Bắt cái vô hình trở thành hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn câm nữa

Đây là nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân, nếu thi nhân là môt thiên tài.

Bích Khê đã tỏ cho chúng ta thấy chàng xứng đáng với hai chữ thiên tài ấy:

Ôi cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm!

Một bàn chân ve vuốt một bàn Chân thành

Mát làm sao, mát rợn cả châu Thân ái

Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực

Ôi! Thớ thịt có đàn lên cung bực

Bên những cụ tượng như cặp mắt, bàn chân, châu thân, ngực, thớ thịt… rất tầm thường không gợi cho ta được một sự rung động tân kỳ nào cả mà thi sĩ khéo đưa cho chúng một nguồn cảm giác tinh thần khiến đôi mắt ngời sắc kiếm, bàn chân được ve vuốt, châu thân mát rợn lên và thớ thịt lại có đàn lên cung bực.

Và đây là những mầu sắc mầu nhiệm mà trí người thường không tạo ra được:

Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như hoa lê?

Thủy tinh ai để lòng gương hồ

Không gian xà cừ hay san hô”

Bích Khê lững thững đi. Chàng đã tới rặng dừa bên Cổ Lũy Cô Thôn lúc nào không hay. Trong tâm trí chàng còn đang rối bời những con chữ mà Trí đã trao cho tập “Tinh huyết” của nàng. Gió ùa lên. Đồng mía xào xạc như lay gọi. Chiều ở phía cửa sông Trà thật buồn. Phía xa, núi Ấn như một con dấu khổng lồ đóng xuống sông Trà. Cũng phía xa bên này sông, núi Bút như đang viết lên trời mây những câu thơ rớm máu của một thời loạn ly gươm giáo.

Không hiểu sao, Bích Khê chợt nhớ Hà Nội. Cái quán nước ở đầu ngã Cấm Chỉ và những bóng dáng sĩ phu Bắc Hà. Chắc Trí sẽ chẳng bao giờ biết đến Hà Nội được nữa. Trí có lẽ là một thi sĩ lớn khác nhiều thi sĩ đương thời là ở chổ đó. Cũng lạ …

Bình luận về bài viết này