HÀN MẶC TỬ VÀ “BÁNH XE TRĂNG 12”


Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử

THANH THẢO

Lâu nay, ít người để ý xem Hàn Mặc Tử sinh nhằm ngày mấy tháng mấy tính theo Âm lịch. Ai cũng biết Hàn Mặc Tử sinh ngày 22.9.1912. Nhờ cái máy điện thoại đời mới của anh bạn, tôi mới biết ngày sinh nhật ấy tính sang Âm lịch nhằm ngày 12.8 năm Nhâm Tý. Vậy là Hàn Mặc Tử, tác giả của bài thơ văn xuôi nổi tiếng, một kiệt tác của thơ văn xuôi Việt Nam, bài “Chơi giữa mùa trăng” – đã sinh ra giữa mùa trăng. Lại là mùa trăng Trung thu, thời điểm trăng sáng nhất, đẹp nhất trong năm. Từ nhiều năm, tôi để ý, không phải trăng rằm, trăng mười hai mới là vầng trăng huyền ảo nhất. Có lẽ vì nó chưa tới độ viên mãn, nó khao khát, nó đắm đuối. ““Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngỡ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa và ngây ngất vì ánh sáng, hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận ra mình là ai nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu tăng sức ôn hòa lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như khói…” (Chơi giữa mùa trăng). ). Người ta nói, với những người bị bệnh phong, ánh trăng có những tác động sinh học cực kỳ khó tả lên thân thể và đầu óc họ. Có thể như thế. Nhưng Hàn Mặc Tử đã viết “Chơi giữa mùa trăng” từ trước khi ông phát hiện mình mắc bệnh phong kia mà ! Người ta cũng nói, cảm hứng sáng tác chủ đạo trong thơ Hàn Mặc Tử là cảm hứng tôn giáo, nhưng hãy đọc thêm một đoạn trong “Chơi giữa mùa trăng” này mà xem, cảm hứng về người chị ruột của Hàn thi sĩ mới là cảm hứng chủ đạo: “Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức bà Maria là Đức tinh truyền chí thánh. Tôi muốn sốt sắng quì lạy mong ơn bào chứa. Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận quần áo bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi.”( Chơi giữa mùa trăng). Đức Mẹ Maria đã hóa thân vào chị Lễ của nhà thơ, hay chị ruột của Hàn thi sĩ chính là Đức Mẹ ? Một cảm hứng hoàn toàn nhân thế, hoàn toàn thuộc về con người. Tôi nghĩ, có lẽ chính cái ánh trăng mười hai trong ngày chào đời của Hn Mặc Tử đã ám nhập vào cuộc đời và nhất là vào thơ của ông sau này. Vậy thì Thượng Đế của Hàn thi sĩ chính là Thiên Nhiên, một thiên nhiên Việt Nam diễm lệ mà gần gũi, yêu thương như người chị ruột của mình. Và cũng phải nói thêm, chính cái ánh trăng trên bãi cát biển Qui Nhơn, nơi núi và biển ôm ấp nhau, gối đầu nhau, đắm đuối nhau, cái ánh trăng vừa hoang lạnh đến tê dại, vừa rừng rực một ngọn lửa mt rượi nhưng thiêu đốt tận tâm hồn, mới là tác nhân giúp Hàn thi sĩ có những bài thơ trăng, những câu thơ trăng kỳ lạ vào bậc nhất không chỉ trong thơ Việt Nam. “Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả…” ( Chơi giữa mùa trăng). Nếu những bậc rong chơi hời hợt trong thi ca vẫn gọi cái hành trình làm thơ của mình là “một cuộc chơi” thì với Hàn Mặc Tử, “cuộc chơi” ấy là cuộc chơi vãi máu, mửa máu : “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy – Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” – ( Say trăng)– say trăng chứ không phải say rượu hay say bia. Người có thể uống ánh trăng, nuốt ánh trăng mà “say xỉn” như thế, hẳn không phải là người thường, không thể đo thơ người ấy bằng những thước đo thường. “Người ta gọi thơ ông là thơ điên. Thật ra cái giọng điên chỉ có ở giai đoạn sau, giai đoạn đầu thơ ông trong trẻo lắm” (Vũ Quần Phương) Tôi lại nghĩ khác. Nếu người ta gọi cái trạng thái không bình thường của người làm thơ khi cầm bút viết ra thơ, cái trạng thái đã theo suốt cuộc đời làm thơ của Hàn Mặc Tử, là điên, thì thơ Hàn Mặc Tử “điên toàn triệt”, điên từ đầu chí cuối. Còn nếu người ta gọi những dòng thơ bất thường viết ra trong trạng thái không bình thường của Hàn là những dòng thơ của sự tỉnh ngộ, thì thơ Hàn Mặc Tử “tỉnh toàn triệt”. Cũng như vậy, nếu người ta biết tâm hồn nhà thơ ấy trong trẻo đến bậc nào, thánh thiện đến bậc nào, thì người ta sẽ đọc được ngay trong những bài thơ gọi là “điên” nhất của Hàn Mặc Tử, một sự “trong trẻo toàn triệt”. Thơ Hàn Mặc Tử tỉnh táo đến tận cùng, mà ai cũng biết, đi tới tận cùng tỉnh táo người ta sẽ gặp điên loạn. Nếu theo cái thước ấy mà đo, thì bất cứ thơ của ai, miễn là thơ “thứ thiệt”, đều có thể rất điên và cũng đều rất tỉnh. Và dẫu thơ ấy sục vào tận những hang cùng ngõ hẻm của vô thức, vào chỗ tối tăm bùn lầy nước đọng của hạ ý thức, thì khi thành thơ, thơ ấy vẫn vô cùng trong trẻo. Bởi thơ từ xưa tới giờ luôn là kinh cầu nguyện của tâm hồn con người, nơi con người có thể sám hối, có thể khắc khoải, có thể khao khát và công khai bày tỏ những khát khao thầm kín nhất, nơi bất cứ một ánh nhìn nào cũng đều được “trong trẻo hóa”, đều thăng hoa, hướng thượng : “Ống quần vo xắn lên đầu gối – Da thịt, trời ơi ! Trắng rợn mình” có phải là một câu thơ “sex” ? Nhưng tôi đố ai đọc câu thơ ấy mà lại nghĩ đến điều dung tục, mặc dù câu thơ đầy cảm giác xác thịt. Đó có lẽ là bí quyết của thơ, bí mật của loại hình nghệ thuật vào loại lâu đời nhất của nhân loại này. Thơ luôn là thánh đường dành cho một người, cho từng người một. “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi” – Đã bao giờ anh thấy trăng “nằm” trong tư thế bất thường như thế chưa ? Hàn thi sĩ đã thấy, và cái nhìn bất thường ấy đã tạo ra câu thơ bất thường. Thơ Hàn Mặc Tử là thơ đi tới tận cùng, trong niềm tin, trong khao khát, trong tuyệt vọng. Chính bệnh phong là hòn đá, chứ không phải giọt nước, làm tràn cái “ly thơ” ấy. Chỉ sống trên cõi đời được 28 năm, chỉ thực sự làm thơ khoảng mười năm, nhưng đó là mười năm dồn nén để trào thơ, theo kiểu những đĩa nén vi tính bây giờ có thể dung chứa gấp trăm lần một đĩa thường. Mười năm thơ của Hàn đủ cho hậu thế đọc thơ ông suốt trăm năm và lâu hơn nữa. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay ?” , là một câu thơ trăng đẹp nhưng cũng có người khác làm được, nhưng “Cả miệng ta trăng là trăng” thì chẳng biết có ai làm được không, ngoài Hàn thi sĩ ? Và đây nữa : “Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai” thì lạ quá ! Lạ không chỉ vì đây là câu thơ siêu thực, lạ vì nó siêu thực một cách rất… hiện thực. Đừng tưởng siêu thực là phản hiện thực, là chối bỏ hiện thực. Siêu thực là hiện thực ở dạng “đĩa nén”, hiện thực ở mức lạ thường. Có điều, những bài thơ cuối đời của Hàn Mặc Tử, càng siêu thực thì càng đau đớn, một nỗi đau sờ thấy được, cảm thấy được, đau cùng được. Và càng siêu thực thì lại càng tin tưởng, tin tưởng trong tuyệt vọng. Đó là thơ của vô vàn những nghịch lý mà con người hiểu được, cảm được, chia sẻ được. Một người bị bệnh phong, cô đơn đến tột cùng, đau đớn đến tột cùng, sự sống chỉ còn tính bằng ngày bằng tháng, làm thơ chỉ cho mình, dù trước đó ông đã là nhà thơ nổi tiếng. Không ai muốn có bi kịch như thế, phải sống trong bi kịch như thế để làm thơ hay, có thơ để đời hoặc hy vọng vào sự bất tử sau khi mình chết. Nhưng khi đã lâm vào hoàn cảnh ấy rồi, nhất là khi đã được thiên phú để làm thi sĩ, Hàn Mặc Tử không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cho “xuất”, cho “thoát” ra khỏi người mình những bài thơ tuyệt tác, những câu thơ tuyệt vọng, những miếng thơ tuyệt vời.

“Ai đi lẳng lặng trên làn nước

Với  lại ai ngồi khít cạnh tôi ?

Mà sao ngậm kín thơ đầy miệng

Không nói không rằng nín cả hơi” (Cơ liu)

Có ai từng cô liêu như thế chưa, cô liêu đến mức phân thân, đến mức thấy cái “double ego”, cái bản ngã thứ hai của mình đi lại, ngồi sát bên mình, mệng ngậm đầy… thơ ? Với Hàn Mặc Tử, thơvới trăngmang tính chất kép, là một hóa hai, là hai trong một (nói thế không phải để quảng cáo cho… dầu gội đầu), không chỉ trăng tác động đến thơ ông, mà dường như chính thơ ông cũng tác động rất nhiều đến trăng, khiến trăng đột nhiên lạ đi, kỳ ảo hơn, ma quái hơn nhưng cũng gần với con người hơn, biết chia sẻ, biết đồng cảm hơn. Sinh giữa mùa trăng, “Chơi giữa mùa trăng“, thơ giữa mùa trăng, và đây mới là điều kỳ dị, kỳ dị đến ghê người, là khi chết, Hàn cũng chết giữa mùa trăng. Hàn Mặc Tử qua đời ngày 11.11.1940, nếu tính sang Âm lịch, trời ơi, bạn có tin không, ông mất đúng vào ngày 12 tháng 10 năm Canh Thìn. Sinh vào đêm trăng mười hai tháng Trung thu, và mất vào đêm trăng mười hai tháng mười, tháng mưa sùi sụt ở Qui Nhơn. Phải đó là một “Bánh xe trăng 12”-một Karma trăng 12, một “Nghiệp trăng 12” kỳ lạ với nh thơ cĩ số phận khơng bình thường Hn Mặc Tử ?

Có thể trước giây phút cuối cùng nhắm mắt, Hàn thi sĩ còn chợt thấy, bất ngờ hiện qua mây đen, qua màn mưa một vầng trăng chưa tròn, cái vầng trăng mười hai đầy khao khát…

Bình luận về bài viết này