CHIỀU HOANG BIỀN BIỆT – BIỀN BIỆT HỮU LOAN


Nguyễn Trọng Tạo: Chiều nay mở nhạc nghe, tình cờ gặp một số bài hát phổ nhạc từ bài thơ “Màu tím hoa sim” của thi sĩ Hữu Loan. Đó là NHỮNG ĐỒI HOA SIM của Dzũng Chinh,  ÁO ANH SỨT CHỈ ĐƯỜNG TÀ của Phạm Duy. Bài thơ này cũng được nhiều nhạc sĩ khác phổ nhạc như CHUYỆN HOA SIM của Anh Bằng,  “Tím cả chiều hoang” (Nguyễn Đặng Mừng), “Tím cả rừng chiều” (Thu Hồ), “Tình thiên thu” (Trần Thiện Thanh)… Bỗng nhớ ông Hữu Loan – một tài thơ độc cách. Xin đăng lại bài tôi viết sau khi ông qua đời cùng với bài hát đầu tiên phổ thơ ông của Dzũng Chinh qua giọng hát Phương Dung.  

CHIỀU HOANG BIỀN BIỆT – BIỀN BIỆT HỮU LOAN 

Nghe tin nhà thơ Hữu Loan vừa qua đời, tôi bần thần nhớ lại câu thơ hay nhất của ông “Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt” trong bài thơ Màu tím hoa sim nối tiếng một thời. Bài thơ đã được in trên báo Chiến Sĩ  thời kháng chiến chống Pháp do ông làm chủ bút, rồi được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và rất phổ biến ở miền Nam thời chiến tranh chống Mỹ. Nhưng sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm 1958, tên Hữu Loan cũng vắng bóng biền biệt trên văn đàn miền Bắc suốt 30 năm liền, vì ông đã bỏ Hà Nội về quê trước khi người ta chưa kịp “kỷ luật” ông với “tội” tham gia nhóm NVGP. Nhạc sĩ Văn Cao kể cho tôi biết, thuở đó vào một đêm rất khuya, Hữu Loan mang một tay nải đến nhà Văn Cao rủ nhau ra hồ Thiền Quang tâm sự trước lúc rời Hà Nội. Họ đi mãi quanh hồ cho đến gần sáng. Dù Văn Cao muốn giữ ông lại, nhưng Hữu Loan vẫn một mực ra đi quyết trở lại làm một “lão nông tri điền”. Cuối cùng, Văn Cao đã phải tiễn ông ra bến xe gần đó để về Thanh Hóa.

Sau 30 năm đốn củi, chở đá kiếm sống dưới chân núi Vân Hoàn (huyện Nga Sơn quê ông), Hữu Loan mới “tái xuất giang hồ” dọc đất nước khi có chính sách “Đổi mới” của Đảng Cộng Sản VN. Ông ra Hà Nội, vào Huế, rồi chu du vào Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh gặp gỡ bạn bè văn nghệ.

Hồi đó tôi còn ở Huế, một anh bạn đưa Hữu Loan từ Hà Nội vào và nhờ tôi đón ông về nhà. Nhà thơ đã 72 tuổi, râu để dài, nhưng trông ông vẫn khỏe như một lực điền, nước da ngăm chắc, cặp mắt lấp lánh với nụ cười tươi. Khi uống rượu với ông, tôi được biết tháng trước ông từ Thanh Hóa ra Hà Nội thăm lại bạn bè và tá túc trong căn nhà hầm của nhà thơ Tú Sót (tức Chu Thành, biên tập viên nhà xuất bản Thanh Niên, 64 Bà Triệu – Hà Nội). Ông nói: Nhờ có chính sách “Đổi mới” trả lại tự do sáng tác cho các nhà văn thời NVGP ông mới quyết định tái xuất. Ông đưa tôi mấy tập thơ viết trong vở học trò. Đây là thơ ông viết trong 30 năm đốn củi, chở đá ở quê. Tôi ngồi đánh máy lại cho ông 3 trường ca và một số bài thơ. Thơ ông cứ bậc thang lên xuống như hình thức “Đèo Cả” 40 năm trước, nó gập ghềnh và hào sảng như con đường dốc đá mà ông đã tự mình xe đá. Tôi bảo ông, dù đổi mới rồi nhưng thơ của bác vẫn khó in, bởi vẫn cái tinh thần thơ khái trực thời NVGP lên án quyết liệt những tiêu cực của xã hội kiểu bài thơ “Cũng những thằng nịnh hót” ông từng viết. Tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường mời nhà thơ đến thăm Hội Văn Nghệ nói chuyện với anh em Văn nghệ Huế. Vì đông người nên có chiếc micro đặt trước mặt ông. Ông gạt đi. Không phải vì vướng mà vì ông không biết rằng phải nói vào đó thì tiếng ông mới được phóng to lên!!! Hóa ra 30 năm ông quên mất điều đó, khiến mọi người cười ồ. Ông nói đây là lần đầu tiên sau rất nhiều năm ông mới được tiếp xúc và nói chuyện với đám đông dù ông đã từng nói trước đám đông trong cuộc cách mạng tháng Tám 1945 cướp chính quyền tại thị xã Thanh Hóa mà ông là một trong những nhà lãnh đạo lúc bấy giờ.

Phải khẳng định rằng, Hữu Loan là nhà thơ cách mạng. Ông vừa làm một cán bộ cách mạng vừa cách mạng thơ. Bài thơ Đèo Cả của ông viết năm 1946 khi ông vào Liên khu 5, cùng với bài Nhớ Máu của Trần Mai Ninh đã mở ra một thời kỳ mới của thơ cách mạng với giọng thơ tráng ca hào sảng: “Đèo Cả! Đèo Cả/ Núi cao ngút/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương/ Dặm về hun hút/ Bia đá mù sương” và “Người vá áo/ Thiếu kim mài sắt/ Người đập mảnh chai/ Vênh cằm cạo râu/ Suối mang bóng người/ Soi những về đâu ?”. Rồi bài Màu tím hoa sim với một câu chuyện tình thật bi hùng: “Nhưng không chết/ Người trai khói lửa/ Mà chết/ Người gái nhỏ hậu phương./ Tôi về không gặp nàng/ Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ Chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương tàn lạnh vây quanh”. Bài thơ này đã mở ra những bài thơ nổi tiếng khác như Núi Đôi của Vũ Cao, Quê Hương của Giang Nam… Những câu chuyện tình kháng chiến ấy đều bắt nguồn từ mô-típ mà Hữu Loan đã xướng lên. Có lẽ với ý nghĩa lịch sử đó mà bài Màu tím hoa sim đã được một công ty mua bản quyền với giá 100 triệu đồng vào năm 2004, giúp tác giả sống tiếp những ngày vất vả ở quê. Sau 1954, Hữu Loan cũng là nhà thơ táo bạo cùng với Phùng Quán làm những bài thơ chống tiêu cực, mở ra một quan niêm mới cho thơ tiếp cận đời sống xã hội cần lao. Nhưng chỉ mới bắt đầu đã bị dập tắt.

 

Đóng góp của Hữu Loan cho thơ cách mạng là không thể phủ nhận. Tuy vậy, cuộc đời với nhiều trắc trở đã khiến ông sau khi “tái xuất” đã lại vội vã trở về cố thủ trong những tâm tư thầm kín. Theo tôi, với những bài thơ yêu nước nổi tiếng một thời, ông xứng đáng được tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT, nhưng Giải thưởng đó vẫn chưa tìm đến ông. Hy vọng, Nhà nước sẽ không bỏ sót những bài thơ xứng đáng của ông.

Giờ thì nhà thơ Hữu Loan đã vĩnh viễn xa chúng ta, những người yêu và trân trọng thơ ông lẫn nhân cách thơ của ông. Tôi vẫn muốn một lần ghé thăm ông dưới chân núi Vân Hoàn, nhưng từ nay dưới chân núi Vân Hoàn đã vắng bóng ông, một nhà thơ cách mạng cương trực, khí phách nhưng cũng đầy những câu thơ ứa lệ.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt

Vĩnh biệt ông, biền biệt Hữu Loan!

19.3.2010

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Tiểu sử nhà thơ Hữu Loan: Ông tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học Thành chung ở Thanh Hóa, đậu tú tài Tây năm 1938 tại Hà Nội (vì vậy ở quê thường gọi là cậu Tú Loan). Thời đó, bằng tú tài rất hiếm, rất ít người có nên ông được mời vào làm trong Sở Dây thép (Bưu điện) Hà Nội nhưng ông không làm mà đi dạy học và đã từng là cộng tác viên của các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Năm 1939 ông tham gia Mặt trận Bình Dân rồi về tham gia Mặt trận Việt Minh tại thị xã Thanh Hóa.

Năm 1943, ông gây dựng phong trào Việt Minh ở quê nhà, và khi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, rồi được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính.

Trong kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tình nguyện đi bộ đội, phục vụ trong sư đoàn 304 và làm chính trị viên tiểu đoàn, đồng thời làm chủ bút tờ Chiến Sĩ của sư đoàn.

Tháng 2 năm 1948, ông cưới cô Lê Đỗ Thị Ninh là người học trò cũ mới 16 tuổi. Cưới nhau xong, ông lại lên đường ra mặt trận. Ba tháng sau, ông được tin người vợ trẻ tuổi ở nơi quê chết đuối. Ông quá đau khổ, viết lại chuyện hai người thành bài thơ Màu tím hoa sim.

Năm 1954, cưới Phạm Thị Nhu cô gái 17 tuổi. Cuộc hôn nhân này đã cho ông 10 người con và hơn 30 người cháu.

Đầu năm 1955, ra khỏi quân đội, ông về Hà Nội xin vào làm việc tại báo Văn Nghệ. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, ông bỏ Hà Nội về sống tại quê nhà và mất vào lúc 19 giờ ngày 18.3.2010

Các tác phẩm: Một số bài thơ đã được nổi tiếng: Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa lúa, Tình Thủ đô… và tập Thơ Hữu Loan

Tại miền Nam, bài Màu tím hoa sim đã được hai nhạc sĩ Dũng Chinh và Phạm Duy phổ nhạc, mỗi người theo cách riêng của mình nhưng đều nổi tiếng.

Vào tháng 10 năm 2004, Màu tím hoa sim đã được Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (viết tắt: vitek VTB) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng.

10 bình luận

  1. Lại nhớ câu thơ của XUÂN SÁCH người đồng hương THANH HOÁ viết về HỮU LOAN : “Chưa làm nhà còn bận làm người ” Mong sao (nếu có kiếpsau} ,ông được toàn tâm toàn ý cho việc làm thơ, không còn vướng bận vào viêc làm người nữa .Ở thế giới mới chắc chắn làđã hoàn thiện chế độ ‘một cửa một dấu” nên néu có gia nhập HỘI ĐOÀN nào chắc cũng chẳng ai gây khó cho ông !

  2. Vĩnh biệt nhà thơ Hữu Loan! Hậu thế sẽ mãi nhớ về ông qua những vần thơ bất tử.

  3. Hữu Loan cũng như Phùng Quán và những người viết hoa khác là thi sỹ gương sáng cho tinh thần không lụy cường quyền tàn bạo
    Họ đã phục sinh và sẽ còn sống mãi!

  4. Đã qua Đèo Cả oai hùng
    Lại màu sim tím nhuộm buồn trung du
    Nẻo đời nửa thực nửa hư
    Giờ yên một giấc thiên thu, hỡi người!

  5. Mấy ai dám sống thật với chính mình như HỮU LOAN. Số ít người như thế thì khổ, bị trù dập đến đi vào quên lãng. Còn những kẻ sống bằng mặt nạ thì ăn trên ngồi chốc, lấy tiền “chùa” xây chùa, lấy tiền bất lương đi làm từ thiện, …lại cho mình quyền phát ngôn. Bộ mặt giả và cái danh giả. VÌ ĐÂU ?

  6. Cho toi so dien hoai cua ba VO hoac con cua ong NGUYEN HUU LOAN.
    Thanh that da .
    Tuyen

  7. Không rõ vì lý do gì mà chú Tạo chưa về thăm cụ Hữu Loan khi cụ còn sống. Có lẽ bận rộn hay vì tư tưởng không hòa đồng. Thật tiếc!

    to Tuyenle: Nhà cụ Loan không có điện thoại, có lần đài BBC gọi điện về mà cụ còn phải dùng di động của một người khác cơ mà. Nếu muốn gặp con cái cụ thì liên lạc anh Nguyễn Hữu Đán, con trai cụ hiện làm việc tại công ty Bảo tồn Di sản văn hóa Kiến trúc Việt

  8. Nếu dân Việt mình có nhiều trí thức như ông hay như Nguyễn mạnh Tường ,Phùng Quán …..Thì dân mình đã tỉnh ra từ lâu .Khổ nỗi quá nhiều bọn oanh ,yến ca hót !

  9. Công bình mà nói Hữu Loan là một nhân cách VN.tuyệt vời độc nhất
    vô nhị không những trong giới văn thi sĩ mà còn cả nước !
    Các nhà thơ,văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cũng có nhân cách
    đáng phục nhưng chưa bằng Hữu Loan,dám vất bỏ tất cả công danh,
    sự nghiệp để ‘làm người’,bất chấp mọi thử thách hèn hạ mà bọn tiểu
    nhân đã làm,hòng dìm ông xuống tận đáy bùn đen ! Ấy thế nhưng trời vẫn cho ông sống thọ để làm chứng một thời… !

  10. HỮU LOAN

    Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo,hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa kô ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. lên trung học,theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, kô có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi- Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi kô có ý định dấn thân vào chôn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …Tôi – Nguyễn Hữu Loan.
    Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
    Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt,coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ”Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy,tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấynhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
    Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền,em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành….Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ….Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồn. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ” mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
    Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
    -Thầy có thích ăn sim không ?
    Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ….Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng.
    -Thầy ăn đi.
    Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
    -Ngọt qúa.
    Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế!
    Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
    Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi ….lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại….em vẫn đứng yên đó ….Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…..
    Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồn, không chịu ra tiếp ai bao giờ ….
    Chín năm sau, tôi trở lại nhà….Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….
    Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.
    Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉng Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
    Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân , theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
    Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .
    Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn….Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
    Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
    Những em nàng có em chưa biết nói
    Khi tóc nàng đang xanh …
    …Tôi về không gặp nàng….
    Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
    Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chổ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh. huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
    Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
    Chiều hành quân, qua những đồi sim
    Những đồi sim, những đồi hoa sim
    Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
    Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
    Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
    Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
    Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!
    Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liên thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ….Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
    Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi….Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
    Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

    Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.

    Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn,. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.

    Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng .

    Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

    Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

    Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

    Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no….Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

    Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường,chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.

    Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.

    Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 trệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

    Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

    MÀU TÍM HOA SIM

    Nàng có ba người anh đi bộ đội
    Những em nàng
    Có em chưa biết nói
    Khi tóc nàng đang xanh
    Tôi người vệ quốc quân
    xa gia đình
    Yêu nàng như yêu người người em gái.
    Ngày hợp hôn
    Nàng không đòi may áo mới
    Tôi mặc đồ quân nhân
    đôi giày đinh bết bùn
    Đất hành quân
    Nàng cười xinh xinh
    bên anh chồng độc đáo

    Tôi ở đơn vị về
    Cưới nhau xong là đi
    Từ chiến khu xa
    Nhớ về ái ngại
    Lấy chồng thời chiến binh
    Mấy người đi trở lại
    Lỡ khi mình không về
    thì thương
    người vợ chờ
    bé bỏng chiều quê……

    Nhưng không chết
    Người trai khói lữa
    Mà chết
    Người gái nhỏ hậu phương.
    Tôi về không gặp nàng
    Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
    Chiếc bình hoa ngày cưới
    thành bình hương
    tàn lạnh vây quanh

    Tóc nàng xanh xanh
    ngắn chưa đầy búi
    Em ơi giây phúp cuối
    Không được nghe nhau nói
    Không được nhìn nhau một lần
    Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
    áo nàng màu tím hoa sim
    Ngày xưa
    một mình
    đèn khuya
    bóng nhỏ
    Nàng vá cho chồng tấm áo
    ngày xưa…..

    Một chiều rừng mưa
    Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
    Biết tin em gái mất
    trước tin em lấy chồng
    Gío sớm thu về rờn rợn nước sông
    Đứa em nhỏ lớn lên
    ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
    Khi gío sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
    Chiều hành quân
    Qua những đồi sim
    những đồi sim dài trong chiều không hết
    Màu tím hoa sim
    tím chiều hoang biện biệt
    Nhìn áo rách vai tôi hát
    trong màu hoa
    ( áo anh sứt chỉ đường tà
    Vợ anh mất sơm, mẹ già chưa khâu….)

    Hữu Loan

Bình luận về bài viết này