TRẦN DẦN – NHÀ CÁCH TÂN THƠ VIỆT


NGUYỄN TRỌNG TẠO

Không phải đến hôm nay người ta mới gọi Trần Dần là “nhà cách tân”. Từ năm 1946 khi tham gia nhóm Dạ Đài, Trần Dần đã cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Địch… soạn ra bản “Tuyên ngôn tượng trưng” nhằm cách tân thơ Việt sau rất nhiều thành công của Thơ Mới (trước năm 1945).

Nhà thơ Trần Dần và Nguyễn Trọng Tạo, 1995 - Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Ông cũng là nhà tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến dịch Điện Biên Phủ với nhan đề Người người lớp lớp được phổ biến rộng rãi sau năm 1954. Dù được khen ngợi nhiều, nhưng Trần Dần vẫn chưa ưng ý. Ông thú nhận trong nhật ký rằng: “Tôi vừa viết xong cuốn Người người lớp lớp. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi ít thấy sự thực của bản thân tôi trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: Anh đã thấy (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang Người người lớp lớp”. Nghĩa là ông luôn trăn trở cho thơ văn phải hướng về phía trước, phía cách tân. Sau này, suy nghĩ về thơ, ông tuyên bố “phải chôn Thơ Mới”, tức là phải sáng tạo ra một thứ thơ khác, thời đại hơn, mới mẻ hơn những thành tựu đã có, dù Thơ Mới đã làm xong cuộc cách mạng thơ đặc sắc.

Cuộc cách tân thơ của Trần Dần sau hòa bình năm 1954 vừa mới khởi ra chưa được bao lâu thì đã bị tai nạn “Nhân văn – Giai phẩm”. Ông bị kỷ luật và bị “treo bút” 3 năm, nhưng thực ra thì mãi 30 năm sau mới xuất hiện trở lại văn đàn. Thuở ấy ông làm một cuộc du ngoạn vào Huế chơi với anh em văn nghệ chúng tôi. Những bài thơ dài của ông thời “Nhân văn – Giai phẩm” như Nhất định thắng, Hãy đi mãi… được nhiều người đọc lại. Còn ông thì khoe với tôi (ông ở nhà tôi mấy ngày) những tập bản thảo mà ông đã viết trong 30 năm im lặng ấy, gần 30 tác phẩm, đó là thơ-tiểu-thuyết Cổng tỉnh, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, Đêm núm sen… các tập thơ Mùa sạch, Thơ mini, Việt Bắc, v.v… Còn thơ trong các cuốn “sổ bụi” của ông thì nhiều vô kể. Đọc một số bản thảo của ông, tôi không ngờ rằng, một người nhỏ thó, gầy đét như ông lại có cả một trái tim lớn lao như vậy. Đấy là trái tim khát vọng “làm quốc ngữ”, làm “người nhân loại”. Có thể nói rằng bi kịch và cô đơn hoàn toàn đã buộc ông phải chiến thắng bằng vũ khí ngôn ngữ. “Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa” – ông quan niệm. Chính vì làm thơ kiên trì với quan niệm đó mà thơ ông đã mang đến cho nền thơ chung một lối thơ độc sáng. Có nhiều người ảnh hưởng lối thơ Trần Dần, nhưng không ai có thể vượt qua ông về lối thơ đó, vì đấy là thơ tự thân, đó là máu, mồ hôi và óc não của ông đọng thành những con chữ.

Thuở đầu, Trần Dần thích thơ Maiacovski. Những bài thơ bậc thang của ông đã tạo nên những nhịp điệu quyết liệt mạnh mẽ khi diễn tả những rung cảm đa chiều của ông về cuộc sống, về dân tộc:

“Biển súng rừng lê bạt ngàn con mắt

                         Quân ta đi tập trận về qua

Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…

Nhưng về sau thơ ông đã đổi khác. Ông tạo ra những con chữ độc đáo, sinh động và đa nghĩa:

“Đừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!

Đừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ…

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ

Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè…”.

Người ta nói rằng Trần Dần đã thổi hồn vào từng sự vật, thổi sự sống vào từng con chữ. Nhưng cái làm cho người đọc luôn bất ngờ là cái cách tư duy ngôn ngữ táo bạo, độc đáo và mới lạ của ông đã tạo nên những ấn tượng mạnh, thậm chí thoạt đầu gây sốc. Gây sốc bởi vì nó mới quá, nó lạ quá, nó không giống “thơ cũ”. Gây sốc bởi ông chủ trương “làm chữ”, làm những chữ mới và làm mới những chữ cũ. Đấy chính là Trần Dần một cá thể thơ.

Ngôn ngữ của Trần Dần luôn biến động và ta thấy cả sự lao tâm của ông cho từng con chữ. Lê Đạt nói “nhà thơ là phu chữ”, tôi nghĩ cụm từ này dùng để gọi Trần Dần thì vô cùng đắc địa. Ngay trong cả loại thơ kiểu văn xuôi của ông vẫn ngồn ngộn hình ảnh và cảm xúc thiên hà. Thơ trẻ hiện nay cố gắng nhiều trong thơ không vần hay thơ văn xuôi, nhưng đọc lại Trần Dần 30 năm trước, vẫn thấy ông còn mới mẻ đến bất ngờ:

“Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hỏa của tôi, kho nào chứa xuể? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di lại cho ai giờ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải”. (Sổ bụi 1979)

Thơ Trần Dần (cũng như tiểu thuyết sau “Nhân văn – Giai phẩm” của ông) ngồn ngộn chữ, ngồn ngộn da thịt, sự sống. Ông không phải một nhà thơ dễ đọc. Ông cũng không phải nhà thơ quần chúng hóa, mặc dù ông thơ hóa nhiều ngôn ngữ quần chúng. Những vấn đề cuộc sống và nghệ thuật luôn được ông soi rọi, chăm chút, xuất thần theo kiểu riêng của mình. Chính vì thế mà ông là người mở đường, người đi trước suốt nửa thế kỷ qua. Tôi khâm phục sự học của ông. Ông học bằng cách đọc thế giới (sách), đọc và quan sát suộc sống, học làm người nghĩa là làm một nhân cách cá biệt, đôi khi như kẻ lập dị giữa đời, giữa đám đông. Học bằng cách làm việc cật lực cho văn thơ. Học bằng cách ngồi dịch sách, dich tài liệu để kiếm sống. Năm 1983, nhạc sĩ Văn Cao nhờ tôi sang nhà Trần Dần mời ông đến nhà uống rượu nhân 60 tuổi, tôi chú ý vết đen trên tường sau chiếc ghế ông ngồi. Cái vết đen như một hình nhân, như cái bóng của ông. Ông đã ngồi dựa tường như vậy suốt mấy chục năm, để đau khổ, để cô đơn toàn phần, để suy nghĩ, để đọc và để viết. Ông viết rất chậm. Có lần Phùng Quán bảo anh Dần viết chậm thế thì bao giờ mới xong tiểu thuyết. Ông thủng thẳng trả lời: “Viết văn chứ có phải đi ăn cướp đâu mà cần nhanh”. Vâng, ông cứ đĩnh đạc như thế, cứ nặng chùy như thế. Và thế mới là Trần Dần.

Bây giờ ông đã xa cõi trần hơn 10 năm, đã được in tuyển thơ dày dặn và những tập sách khác, đã được giải thưởng Hội Nhà văn, Giải thưởng Nhà nước… Tôi nghĩ không có phần thưởng nào lớn hơn khát vọng của ông về chân trời và đường bay của nhân dân, của dân tộc. Hai câu thơ ông khóc hay là ông mơ ước:

“Tôi khóc những chân trời không có người bay

Lại khóc những người bay không có chân trời”.

TRẦN DẦN

Hy vọng

Dù bị vứt bên lề đường

Dù bị tàn tật

Ta vẫn khăng khăng yêu Tổ quốc thật lòng

Dù manh tải đùm thân

Bị gậy bơ vơ trời không che đất không chở

Dù đêm nghe gió quét gậm cầu

Chỉ vài ánh sao lu làm củi lửa

Ta vẫn khăng khăng yêu Tổ quốc thật lòng

Dù chỉ còn một bên tai

Tai sẽ đón tiếng chim ru

Còn một bên tay – tay sẽ quờ quào

Vục một chút màu xanh quê cũ

Cho đôi môi khô uống một hụm trời

Dù xa lắc biển gầm Côn Đảo

Dù nơi đây sóng mặn chát lòng tằm

Ta vẫn sững mái đầu xờm con mắt xếch

Ngùn ngụt bể Đông xa

Tia mống cụt đâm trời

Dù ném thây ta cho cá rỉa

Ta sẽ cựa luân hồi đạp cửa thác sinh

Ta sẽ đầu thai làm gió lốc

Cùng các đám đông đi phố đỏ rừng cờ

Hãy đợi ở cầu Xanh hãy chờ nơi phố Hẹn

Vạt áo tứ thân con mắt ố đừng chùi

Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây

Đừng sa sút lá.

Để ta còn khuyên gió… gió đừng rung cây.

Ngày giỗ “thi sĩ thật” Trần Dần

25/01/2010 10:03:49

 Tết nay báo Tiền Phong đăng bài “Thi sĩ giả – Thi sĩ  thật” của Trần Dần viết 50 năm trước mà như vừa mới viết hôm qua. Ông bảo đi hỏi vợ mà xưng là thi sĩ thì người ta hết vía, người ta nhìn từ cái tóc, cái lông mi của anh. 

Vậy mà suốt đời ông chỉ lao tâm khổ tứ vì thơ. Rồi cũng hỏi được vợ, mà được vợ yêu hết lòng, cùng chịu trăm đường cay cực với chồng cho đến khi ông mất cách nay 13 năm. Nhớ thời ông vào Huế, ba buổi chiều liền ra ngồi một mình nhìn sông Hương và trở về thu được 3 chữ cho Huế là “Nhân Loại Tím”.Ngày ông mất, tôi vừa từ Huế ra họp ở báo Văn Nghệ, anh Hữu Thỉnh giao luôn cho tôi tổ chức trang báo về ông. Đám tang ông hoa chất trên mộ cao như núi. Chúng tôi ở lại thắp nén hương cuối rồi mới cùng gia  đình ông trở về. Nhà văn Nguyễn Hữu Đang đi cùng xe với Hữu Thỉnh và tôi, lặng lẽ nuốt nước mắt. Rồi ông chép vào cuốn sổ ghi điện thoại của tôi câu đối: “Nào công, nào tội, rằng nhục, rằng vinh, thương số phận Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi/ Vẫn nước, vẫn nhà, biết thời, biết thế, quý cuộc đời Phạm Lãi, Trương Lương”. Chắc ông cũng đang nghĩ thế về Trần Dần.

Từ đó, hàng năm cứ đến ngày 9 tháng 12 âm lịch là anh em văn nghệ lại đến nhà thắp hương tưởng nhớ Trần Dần và dự đám giỗ ông. Năm ngoái tôi đi vắng nên năm nay dù đang dự họp tổng kết của Trung tâm bản quyền Âm nhạc vẫn cứ chạy về nhà ông.

Bà Khuê và mấy người con thật hiền lành và chu đáo đón khách. Nhiều văn nghệ sĩ tựu về đây. Dương Tường, Đỗ Hồng Quân, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Đình Toán, Đinh Quang Tỉnh, Đoàn Tử Huyến, Đà Linh, Nguyễn Anh Tuấn, các nhà báo Lương Bích Ngọc, Hòa Bình, Minh Hà… như đến cùng một lúc.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và bà Khuê (vợ Trần Dần) - Ảnh: NĐT

Chúng tôi thấy trống vắng Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hữu Mai… là những người chí cốt. Nhà thơ Hoàng Cầm thì đang cầm cự với căn bệnh tuổi tác… Tuy vậy lại có thêm những người trẻ. Họ là những thạc sĩ, tiến sĩ vì yêu quý thơ văn của ông nên chọn làm luận án, luận văn mà trở thành thân thiết với gia đình…

Nhớ lúc sinh thời, nhà thơ Trần Dần rất thích ăn quà bánh. Ông ăn chậm như để thưởng thức từng chút ngon cầu kỳ của người kẻ chợ. Ông bảo mắt ăn màu sắc, mũi ăn hương ăn mùi, lưỡi ăn mặn ngọt chua cay, còn cái tai thì ăn âm thanh. Chả thế mà ông thích bữa ăn có bánh đa để được nghe tiếng rau ráu thật vui. Những mâm cỗ giản dị nhưng vẫn có mòn quà ông thích là bánh giò. Người bạn mới của gia đình đã tầm mua được thứ bánh giò gấc màu gạch cua thật độc đáo khiến cho mâm cỗ thêm màu sắc.

Ngoài  đời là thế, nhưng trong sáng tạo văn học nghệ thuật, ông là một nhà cách tân không mệt mỏi. Từ năm 1946 ông đã cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Văn Tậu lập nhóm Dạ Đài chủ trương thơ tượng trưng nhưng với ý thức vượt lên trên quan niệm sẵn có để làm một cuộc tiếp biến, đưa nhóm mình theo một hướng riêng, đề cao trực giác, vô thức và tiềm thức của con người trong sáng tạo cũng như trong cảm thụ thi ca.

Nhóm vừa ra được tuyên ngôn nghệ thuật thì kháng chiến bùng nổ, ông tham gia quân đội, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và đã viết nên cuốn tiểu thuyết “Người người lớp lớp” nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông cũng là một “thủ lĩnh trong bóng tối” của nhóm NVGP đề cao tự do văn nghệ nhằm tìm tòi những sáng tạo mới cho văn học. Nhưng sự đổ vỡ đã dạy ông sự kiên định với chí hướng cách tân hơn nữa. 30 năm lặng lẽ làm thơ, ông đã viết nên “Mùa sạch” và tiểu thuyết thơ “Cổng tỉnh” tạo ảnh hưởng lớn về ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật đối với những nhà thơ Việt Nam hiện đại.

Bên cạnh quá nhiều nhà thơ bậc trung, Trần Dần luôn bộc lộ bản lĩnh thơ của người khai phá. Những “con chữ” của ông luôn cựa quậy cùng sự sống. “Làm thơ là làm chữ, làm con chữ” là một quan niệm được ông tận hưởng và chia sẻ trong cả quá trình sáng tạo lâu dài. Chính vì thế mà thơ ông không lẫn với người khác, và thực tế ông đã tạo ra một từ trường thơ thu hút bao người. Ông là một người đầy khát vọng về cuộc sống tốt đẹp. Đó cũng là khát vọng đi tới chân trời nghệ thuật rộng mở. Vì thế mà tâm sự của ông khiến người ta còn mãi mãi suy nghĩ và chia sẻ:

“Tôi khóc những chân trời

không có

người bay

Lại khóc những người bay

không có

chân trời”

Và tài năng thực sự là không thể phụ bạc, cuối cùng ông đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT.

Ngày giỗ ông năm nay, chúng tôi được bà Khuê tặng cuốn hùng ca “Đi! Đây Việt Bắc” của ông lần đầu tiên xuất bản trọn vẹn. Và tôi mở tình cờ gặp câu thơ đầy tin tưởng của ông về người chiến sĩ:

Hãy tin chắc

Rồi ta

Xứng đáng

Một vòng hoa đỏ nhất

Phủ quan tài.

Đó cũng là niềm tin của người thi sĩ – thi sĩ thật – thi sĩ đích thực – Trần Dần.

Hà Nội 23/1/2010

Nguyễn Trọng Tạo

Một bình luận

  1. thật đáng kính phục một tài hoa thi sĩ. Bây giờ thi sĩ rởm nhiều quá, lẫn lộn làm người đọc rối mù đâm ra xa lánh với thơ.Nhiều tờ báo đăng thơ theo kiểu thân quen hoặc nhằm đánh bóng tên tuổi cho một cá nhân nào đó…Càng làm cho thơ thêm nhàm chán. Chính các báo đăng thơ rởm hiên nay đã làm hại uy danh của thơ ca. Mong hội nhà văn và bộ văn hóa nên có ý kiến để bảo vệ cho thơ, cứ đà này không biết rồi đây liệu còn đọc giả nào muốn tìm đến thơ nữa không? Thơ rởm hiện nay quá nhiều, báo động lắm rôi, cần có cách bảo vệ ngay thôi.

Bình luận về bài viết này