NTT: Sau cuốn ”Thơ đến từ đâu”, Nguyễn Đức Tùng lại cho ra mắt tại Việt Nam cuốn ”Thơ cần thiết cho ai”. Đây là 2 cuốn sách quý cho những người yêu thơ, người làm thơ và người nghiên cứu thơ.
Tháng 6 vừa qua, Nguyễn Đức Tùng cùng vợ con từ Canada về nước tổ chức ra mắt sách tại Huế, và được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. Sách do Nxb Hội Nhà Văn và Nhã Nam xuất bản.
Dưới đây là cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều về cuốn ”Thơ cần thiết cho ai”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO: THƠ CẦN CHO AI HAY LÀ AI CẦN THƠ
Người ta nói, người đọc thơ đang ngày càng ít đi. Nhưng các nhà thơ thì hình như ngày càng nhiều, và tất nhiên, những tập thơ cũng ngày càng gia tăng.
Người ta nói, thơ càng ngày càng khó đọc (khó hiểu). Nhưng các nhà thơ thì hình như không an bài với các kiểu thơ cũ đã trở thành mẫu mực; họ muốn vượt thoát, muốn khám phá sáng tạo ra sự bất thường của ngôn ngữ, thậm chí là tạo ra những “ma trận ngôn ngữ” thách đố người đọc. Người ta nói, thơ là sở hữu của mỗi người. Nhưng người ta cũng nói, thơ không của riêng ai.
Và tôi nghĩ, khi người ta yêu, người ta đã là một thi sĩ, cho dù họ không diễn giải thành thơ. Bởi thế, họ cần thơ để chia sẻ nỗi lòng, để hát lên vẻ đẹp bất tận của tâm hồn hay xua đi sự tuyệt vọng tận cùng của ngôi sao số mệnh. Còn Nguyễn Đức Tùng thì cho rằng: “Thơ giúp một người sống đến cùng các giới hạn của cuộc đời. Di chuyển giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thành công và thất bại, anh ta bắt đầu nhận ra những mơ ước của mình chỉ là ký ức đến từ tương lai”. Chính vì thế mà anh đã đi tìm những bài thơ, những nhà thơ để soi sáng hồn mình. Khi Nguyễn Đức Tùng đặt ra câu hỏi “Thơ cần thiết cho ai” cùng có nghĩa trước hết là thơ cần cho chính anh, một bác sĩ, một nhà thơ, một nhà khám phá thơ.
Voznexenxky viết: thơ sinh ra vì thơ, dù tôi không “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Với cuốn sách “Thơ cần thiết cho ai”, Nguyễn Đức Tùng đã lý giải đến tận cùng cả hai điều “trái khoáy” đó khi anh đi sâu vào tận đáy của những bài thơ và tác giả của nó. Mười bài thơ (và hơn thế) của mười nhà thơ mà anh lựa chọn không phải là ngẫu nhiên, mà trước hết là từ nó mà anh chiêm nghiệm ra các vẻ đẹp của nghệ thuật tâm hồn với những trạng huống hết sức bất ngờ trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Anh như soi kính lúp vào các mạch nguồn của chữ để thấy các dây tơ li ti nối liền cảm xúc. Lại có lúc phải nhắm mắt lại cho tâm hồn trôi theo những ẩn dụ xa xăm va chạm với hư vô nơi tư tưởng phát sáng. Một lối bình thơ đa phức, kết hợp cảnh ngộ và tiểu sử, hồi ức và hiện tại, trường phái và thi pháp, thực tiễn và kinh nghiệm, tự sự và nghị luận… với một văn phong nhẹ nhàng, thông minh và quyết đoán, nhằm làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu. Nhưng đôi khi ngòi bút nghị luận sắc sảo của anh bỗng trở nên mềm mại và gợi mở cho người đọc những cảm giác được tiếp tục sáng tạo cùng văn bản.
Cái hay của cuốn sách này còn nằm trong sự lựa chọn đối tượng để phẩm bình. Anh chọn cả những nhà thơ mà ở Việt Nam chưa từng biết đến, nhưng các nhà thơ đó đều có những đóng góp to lớn cho nền thơ bản địa và thế giới: 8 nhà thơ Mỹ và 2 nhà thơ Canada: William Carlos Williams (1883-1963), Billy Collins (1941-), Mary Oliver (1935-), Leonard Cohen (1934-), Elizabeth Bishop (1911-1979), Robert Frost (1874-1963), Naomi Shihab Nye (1952-), William Stafford (1914-1993), Patrick Lane (1939-), Wallace Stevens (187-1955). Có nhà thơ trong sáng giản dị, có nhà thơ cầu kỳ phức tạp… và Nguyễn Đức Tùng đã “phẫu thuật” cơ thể tinh thần của họ và thơ họ nhằm làm sáng tỏ những đóng góp cho dòng chảy thi ca suốt hơn thế kỷ qua. Họ là điển hình thu nhỏ của các trường phái thơ trong nhiều thời kỳ của Mỹ và Bắc Mỹ với tính khác biệt không lẫn vào đâu được. “Đó là sự khác biệt giữa một bên là các nhà thơ tin rằng nhiệm vụ của họ là tìm cách tương thông với độc giả. Muốn được như thế, câu thơ phải trong sáng, người đọc có thể tiếp cận được. Một bên là những nhà thơ, đa số trẻ hơn, tin rằng bài thơ của họ có thể là ngôi nhà đóng kín cửa, ngôn ngữ của họ không nhất thiết dễ hiểu, khi người đọc thơ đến trước bài thơ, không có ai mặc đồng phục đợi ở cửa mời họ vào”. Những kiến thức đó bồi đắp cho dân trí thơ thêm cao dày phù sa màu mỡ.
Là một nhà văn- bác sĩ Việt kiều ở Canada, Nguyễn Đức Tùng có điều kiện khám phá sâu sắc tâm lý sáng tạo của nhà thơ với kiến thức sâu rộng của mình. Vì anh đọc nhiều, đọc rộng và đọc sâu. Tôi đã từng theo anh vào một hiệu sách văn học to lớn ở thành phố Vancouver là nơi anh vẫn thường lui tới, và có khi ngồi cả buổi ở đấy với sách trước khi mua sách về. Anh đọc sách có khi quên cả bữa trưa, và tôi cũng đã bị đói cùng anh. Nhưng điều quan trọng, anh là một người viết. Anh từng thoát bỏ thơ có vần thuở ban đầu để tiếp cận với trường phái không vần hiện đại Tây-Mỹ với ngôn ngữ và thi ảnh Việt, tạo được dấu ấn trong làng thơ Việt hải ngoại, có tiếng vang về trong nước. Anh cũng đã từng làm một loạt cuộc phỏng vấn, trò chuyện với hàng chục nhà thơ Việt khắp nơi trên thế giới về cuộc đời và quan niệm thơ của họ và tập hợp lại thành cuốn sách dày “Thơ đến từ đâu” xuất bản ở trong nước như một hiện tượng văn học với cái nhìn cởi mở và đổi mới. Anh cũng viết riêng một cuốn sách về nhà thơ Du Tử Lê, và một cuốn song thoại với nhà thơ Trần Nhuận Minh. Đó không chỉ là tình yêu thơ đến cháy bỏng của Nguyễn Đức Tùng, mà còn cả một sự tích luỹ, trải nghiệm và tung phóng những ý tưởng nghệ thuật của bản thân anh.
Với “Thơ cần thiết cho ai” xuất bản lần này, Nguyễn Đức Tùng, con người cật lực tận hiến cho thơ lại mang đến cho bạn đọc yêu thơ, cho các nhà thơ (trong đó có tôi) những trang viết đầy ý nghĩa mới mẻ và bổ ích. Nó không chỉ giải đáp câu hỏi “Thơ cần thiết cho ai” mà đọc nó, ta cũng có thể biết được, rồi ai cũng phải cần thơ. Vậy đó…
*
Nguyễn Quang Thiều: Giọng Nói Vọng Ra Từ Bên Trong Bài Thơ
Tập sách có tên Thơ cần thiết cho ai. Đơn giản là thi sỹ Nguyễn Đức Tùng đặt ra một câu hỏi và trả lời câu hỏi đó. Thông thường, tác giả của cuốn sách đặt một câu hỏi như thế thì sẽ dùng rất nhiều lý thuyết để giải quyết câu hỏi này. Trước khi bắt đầu đọc cuốn sách của thi sỹ Nguyễn Đức Tùng, tôi phải thú nhận rằng : tôi đã mang đầy cảm giác ngại ngùng và một sự mệt mỏi mơ hồ bắt đầu len lỏi trong tôi. Tôi không phải là người đọc nhiều lý thuyết về thơ ca hay văn học nói chung với những vấn đề tương tự, nhưng tôi vẫn cảm thấy, với một người sáng tác như tôi có lẽ cũng không cần thiết phải đọc quá nhiều những cuốn sách lý thuyết cho dù nó uyên bác đến đâu khi đề cập đến những vấn đề như sứ mệnh của nhà thơ, thơ ca và chính trị, tính truyền thống và hiện đại hay hậu hiện đại…Nhưng sự thật cuốn sách của thi sỹ Nguyễn Đức Tùng đã thay đổi tôi. Nguyễn Đức Tùng đã trả lời câu hỏi “rất mệt” ấy bằng một cách trả lời thật thông minh, thuyết phục và rất quyến rũ. Sự thông minh, thuyết phục và quyến rũ này đã dẫn dụ tôi và kéo tôi đi hết con đường của ông. Tôi đã đọc hết cuốn sách và tôi thừa biết rằng mình có nhu cầu đọc lại cuốn sách này nhiều lần nữa.
Nguyễn Đức Tùng quả là một “phù thủy”. Ông có khả năng điều kiển cảm xúc của tôi bằng cuốn sách này. Ông dẫn tôi đi (hay trôi đi, hay cuốn tôi đi ) theo dòng chảy của ông và của bài thơ ông nói đến. Nhưng cái hành động dẫn đi hay cuốn đi này không phải để tôi chìm đắm vào đó mà để tôi nhận ra nó đang chuyển động và sẽ dẫn tôi đi tới đâu. Có một cảm giác mà tôi đã thử đi thử lại nhiều lần để tìm ra tính xác thực của cảm giác đó. Đó là tính xác thực của trạng thái tôi vừa mang cảm giác được chìm đắm vừa mang cảm giác nhận biết như tôi là nhân vật chính của bài thơ, là lịch sử của bài thơ và là tất cả những gì bài thơ đã thực hiện hay đã có. Có đôi lúc, tôi tin rằng tôi chính là một trong những gì làm ra bài thơ đó.
Mỗi bài trong cuốn sách này không phải là là một văn bản độc lập về tiểu sử của một nhà thơ mà ông đề cập, không phải một văn bản độc lập về tính biểu tượng hay phép tu từ, không phải một văn bản độc lập ngợi ca tác giả và tác phẩm, không phải một văn bản độc lập về trường phái hay chủ nghĩa…mà chúng là những văn bản tổng hợp. Nói vậy cũng không đầy đủ và chưa thật chính xác. Tôi không tìm được thuật ngữ để bầy tỏ. Tôi xin dùng cách của một nhà thơ để nói về nó cho dù rất mơ hồ: Cách xử lý trong các văn bản đó của Nguyễn Đức Tùng giống như người ta nói về một cánh đồng chứ không phải là đưa ra những mẫu phân tích về thổ nhưỡng hay khí hậu, nói về một cái cây trên đỉnh đồi trong bão gió chứ không phải lý thuyết về các thảm thực vật hay cấu trúc của rừng nhiệt đới, nói về một dòng sông chảy trong hoàng hôn đỏ thẫm chứ không phải nói về mực nước hay những biến động của dòng chảy bị tác động bởi môi trường…Nghĩa là ông dựng lên một đời sống sống động của cá thể bài thơ đó với toàn bộ những gì làm ra nó. Những mối liên hệ từ bài thơ tới tác giả và lịch sử đời sống của nhà thơ cho dù đôi lúc thật ít ỏi, ngắn gọn nhưng đã hiện lên những chỉ dẫn bí mật của những gì tạo lên bài thơ. Và tôi có một chút so sánh dù biết rằng có vẻ hoặc rất thiếu tính khoa học về ông, là : ông là một bác sỹ và ông hiểu toàn bộ hệ thống của những mạch máu và những mô và đặc biệt của AND làm lên một cơ thể sống.
Cho đến lúc này, với một sự suy nghĩ có ý thức và cẩn trọng, tôi muốn nói : thi sỹ Nguyễn Đức Tùng nhiều khi không phải là ông luận bàn hay lý giải bài thơ đó mà thực sự ông đã sáng tạo ra một bài thơ khác. Để thừa nhận nhận định này của tôi, bạn phải đọc những văn bản của thi sỹ Nguyễn Đức Tùng với một cách thức hoàn toàn khác. Bài thơ khác đó của ông không phải là một văn bản tương đồng ở bất cứ một hình thức nào, nó là một cá thể độc lập nhưng lại luôn làm cho chúng ta nhận ra những nơi khuất ẩn của bài thơ kia. Khi còn rất trẻ, tôi đã luôn nghĩ rằng: để đi vào được giấc mơ của kẻ khác thì chúng ta phải có một phương tiện duy nhất đưa chúng ta lọt vào giấc mơ của kẻ đó. Phương tiện đó chỉ có thể là giấc mơ của chính ta. Không ít những nhà phê bình văn học thất bại trong việc tiếp cận những văn bản cụ thể vì họ đã không có cái phương tiện kia. Nguyễn Đức Tùng là một thi sỹ và ông đã được trang bị phương tiện quan trọng nhất. Chính vậy mà nhiều lúc tôi mang cảm giác ông đang ở bên trong bài thơ và nói vọng ra cho chúng ta nghe trong đó có gì và như thế nào.
Thi sỹ Nguyễn Đức Tùng thường hay xử dụng hai cách khi tiếp cận một bài thơ : Toàn thể và chi tiết (cận cảnh). Ông cận cảnh rồi phóng to một từ, một âm tiết, một hình ảnh, một nhịp điệu….của bài thơ khi thì chụp toàn bộ bài thơ và thu nhỏ lại. Phương pháp cận cảnh và phóng đại giống như khi tôi được xem các bức ảnh nghệ thuật người ta chụp những tế bào nhỏ nhất. Chúng thực sự đẹp và đôi lúc làm ta bàng hoàng. Tôi cũng được xem những bức ảnh chụp toàn cảnh trái đất hay các hành tinh nào đó và in ra trong một bức ảnh cỡ 9 x 12cm và tôi cũng lại thấy chúng đẹp mê hồn. Phương pháp cận cảnh của Nguyễn Đức Tùng cho tôi nhận thấy trong một bài thơ có rất nhiều bài thơ. Mỗi bài thơ đó vừa độc lập vừa gắn kết với bài thơ “mẹ” của nó. Nó không phải là một chi tiết hay một hình ảnh của bài thơ “mẹ” mà là những bài thơ độc lập tạo lên một bài thơ có sức chứa rộng hơn về mặt không gian trong nhiều chiều của không gian đó.
Có một vài bài thơ của một vài nhà thơ mà Nguyễn Đức Tùng dịch và nói về nó là những bài thơ mà tôi cũng đã dịch và cảm nhận chúng. Và sự thật là tôi có một cách dịch khác và có một cái nhìn khác về những bài thơ đó. Nhưng tôi lại hoàn toàn thừa nhận một cách thú vị trong tinh thần bị thuyết phục cách dịch và cách cảm nhận bài thơ đó của Nguyễn Đức Tùng. Vì sao vậy ? Vì trước hết mỗi bài thơ là một đơn vị đa văn bản, thứ hai ta nhìn thấy một ô cửa mới mà thi sỹ Nguyễn Đức Tùng mở ra trong những bức tường đôi khi câm lặng của ngôi nhà bài thơ ấy mà ta thường nghĩ trước đó rằng không gian ngôi nhà đã hoàn toàn bị giới hạn hay kết thúc bởi những bức tường. Và điều thứ ba là thi sỹ Nguyễn Đức Tùng đã làm những gì ông làm với bài thơ đó là hợp lý, chính xác, công bằng và quyến rũ. Và điều cuối cùng trong bài viết nhỏ này, tôi muốn tuyên bố : Nguyễn Đức Tùng là một nhà thơ ở bên trong và bên ngoài nhà thơ mà ông đề cập và ông đã viết một bài thơ ở bên trong và ở bên ngoài bài thơ của những nhà thơ đó.
Filed under: Báo chí, Làng văn nghệ, Phê bình, Sự kiện | Tagged: NGUYỄN QUANG THIỀU, NGUYỄN TRỌNG TẠO, NGUYỄN ĐỨC TÙNG |
Trả lời